Thông tin ngôn ngữ trị liệu
Chứng khó đọc
Tìm hiểu chung Chứng khó đọc là gì? Chứng khó đọc là một dạng khó khăn trong học tập khá phổ biến, gây ra các vấn đề về đọc, viết và đánh vần. Chứng này không ảnh hưởng đến trí thông minh. Mức độ phổ biến của chứng khó đọc Chứng khó đọc chủ yếu xảy ra ở trẻ em và có thể không được phát hiện cho đến khi trưởng thành. Triệu chứng Những dấu hiệu và triệu chứng của chứng khó đọc là gì? Các biểu hiện chứng khó đọc thường gặp là: Đánh vần, nói và đọc chậm hoặc khó khăn; Học vần điệu hoặc chơi trò chơi đánh vần khó khăn; Các vấn đề về xử lý, ghi nhớ và hiểu những điều nghe thấy; Khó khăn trong việc phân biệt những điểm tương đồng và khác biệt của các từ hoặc...Đọc Thêm
Xem thêmNhững điều cần biết về chứng khó đọc
Chứng khó đọc là một tình trạng khó khăn trong học tập làm giảm khả năng đọc và viết của một người. Tình trạng này liên quan đến cách não xử lý các hình thức viết và âm thanh của từ, ảnh hưởng đến nhận dạng từ, chính tả và khả năng ghép các chữ cái với âm thanh. Đây là một tình trạng thần kinh, chứng khó đọc không liên quan đến trí thông minh. Chứng khó đọc là một tình trạng khó khăn trong học tập làm giảm khả năng đọc và viết của một người. Tình trạng này liên quan đến cách não xử lý các hình thức viết và âm thanh của từ, ảnh hưởng đến nhận dạng từ, chính tả và khả năng ghép các chữ cái với âm thanh. Đây là một tình trạng thần kinh, chứng khó đọc không liên quan đến...Đọc Thêm
Xem thêmMất khả năng đọc do bệnh lý mắc phải (tiếp)
Riley, E. A., Brookshire, C. E., & Kendell, D.L Các từ viết tắt MNN = mất ngôn ngữ OIL = kho chính tả từ vựng đầu vào POL = kho âm vị đầu ra RLĐ = rối loạn đọc SS = hệ ngữ nghĩa Do bệnh lý mắc phải ở hệ thần kinh trung ương như đột quị hoặc chấn thương sọ não, Rối loạn đọc (RLĐ) mắc phải xảy ra sau tổn thương hệ thống đọc đã trưởng thành hoàn chỉnh và biểu hiện như là khiếm khuyết khả năng hiểu ngôn ngữ viết. Mặc dù có một vài loại RLĐ mắc phải đã được thảo luận trong y văn, RLĐ mắc phải có thể được chia thành RLĐ ngoại biên và RLĐ trung ương, trong đó mỗi loại đại diện cho khiếm khuyết ở từng giai đoạn khác nhau của tiến trình đọc. Các phân nhóm ngoại biên ảnh hưởng các...Đọc Thêm
Xem thêmMất khả năng đọc do bệnh lý mắc phải
Riley, E. A., Brookshire, C. E., & Kendell, D.L Các từ viết tắt MNN= mất ngôn ngữ OIL= kho chính tả từ vựng đầu vào POL= kho âm vị đầu ra RLĐ= rối loạn đọc SS= hệ ngữ nghĩa Do bệnh lý mắc phải ở hệ thần kinh trung ương như đột quị hoặc chấn thương sọ não, Rối loạn đọc (RLĐ) mắc phải xảy ra sau tổn thương hệ thống đọc đã trưởng thành hoàn chỉnh và biểu hiện như là khiếm khuyết khả năng hiểu ngôn ngữ viết. Mặc dù có một vài loại RLĐ mắc phải đã được thảo luận trong y văn, RLĐ mắc phải có thể được chia thành RLĐ ngoại biên và RLĐ trung ương, trong đó mỗi loại đại diện cho khiếm khuyết ở từng giai đoạn khác nhau của tiến trình đọc. Các phân nhóm ngoại biên ảnh hưởng các giai...Đọc Thêm
Xem thêmCác rối loạn đọc mắc phải
Riley, E. A., Brookshire, C. E., & Kendell, D.L Các từ viết tắt MNN = mất ngôn ngữ OIL= kho chính tả từ vựng đầu vào POL= kho âm vị đầu ra RLĐ = rối loạn đọc SS = hệ ngữ nghĩa Giới Thiệu Trong nhiều năm qua tiến trình xảy ra khi đọc đã được tranh luận nhiều trong y văn về tâm lý-ngôn ngữ, thần kinh-ngôn ngữ, và giáo dục. Hầu hết các y văn này bàn luận tiến trình đọc và đưa ra các giả thuyết về mô hình mô tả các thành phần của tiến trình này. Hầu hết các mô hình này bao gồm các biến thể về qui trình tiếp nhận một chữ in, phân tích các thành phần của một chữ in, hiểu kí tự đại diện, và trong trường hợp đọc thành tiếng thì liên quan đến sự tạo ra âm thanh của từ ở miệng. Một số mô hình...Đọc Thêm
Xem thêmBộ Bảng giao tiếp dành cho bệnh nhân Covid-19 khi không thể nói chuyện lúc thở máy
Bộ Bảng giao tiếp dành cho bệnh nhân Covid-19 khi không thể nói chuyện lúc thở máy là sản phẩm của nhóm Nghiên cứu gồm: 1) ThS. Nguyễn Thị Nha Trang – Trung tâm Nghiên cứu, Ứng dụng Khoa học Tâm lý – Giáo dục AN; 2) BS. Cao Bích Thủy – Trường ĐH Kỹ thuật Y Dược Đà Nẵng; 3) BS. Nguyễn Hoàng Oanh – Trường ĐH Kỹ thuật Y Dược Đà Nẵng và 4) TS. Nguyễn Thị Tâm An – Trường ĐH Sư phạm Hà Nội. Đây là sản phẩm được dịch và điều chỉnh từ phiên bản tiếng Anh của tổ chức PHILIPPINE ASSOCIATION OF SPEECH PATHOLOGISTS (PASP) AAC SIG. Nhóm nghiên cứu và ứng dụng AAC ở Việt Nam đã xin phép chuyển ngữ và sử dụng cho cộng đồng người Việt ngày 04/04/2020. BẢNG GIAO TIẾP Hướng Dẫn Sử Dụng Bệnh nhân sử dụng...Đọc Thêm
Xem thêmQuá trình nuốt bình thường ở người lớn: kiểm soát thần kinh trong quá trình nuốt
Sự điều hòa thần kinh của quy trình nuốt bao gồm sự kích hoạt của nhiều mức độ khác nhau trên các con đường hướng tâm và ly tâm ở các mức độ khác nhau của hệ thần kinh trung ương, bao gồm các dây thần kinh sọ, thân não, tiểu não, vùng dưới vỏ, vỏ não viền (limbic cortex), và vỏ não tân sinh (neocortex). Một số khía cạnh của quy trình nuốt dường như vận hành ở mức độ phản xạ thuần túy, nhưng có nhiều khả năng rằng quy trình nuốt không đại diện cho một đáp ứng mang tính phản xạ thuần túy, có thân não làm trung gian bởi vì các món ăn vào hiếm khi được nuốt theo cùng một cách như nhau bất kể sự tương đồng về dạng hay kích thước của viên thức ăn. Như vậy, quy trình nuốt được tin là đại...Đọc Thêm
Xem thêmQuá trình nuốt bình thường ở người lớn: Nuốt và tiến trình lão hóa bình thường
Ở những người trên 65 tuổi, một số thay đổi về khả năng nuốt có thể giải thích được của họ có thể đơn thuần quy về lý do tuổi tác. Những thay đổi này có thể có tác động làm mất bù nuốt. Một vài trong số những thay đổi này có thể xuất hiện sớm ở khoảng 45 tuổi. Những thay đổi này có thể được quy cho là do những thay đổi ngoại biên trong tri giác cảm giác, chẳng hạn như mùi và vị, và giảm sức mạnh cơ thứ phát do những thay đổi về khối cơ và tính co cơ. Sự mất đi sức mạnh cơ (lực) và tốc độ cơ ở những người già dẫn đến sự tăng lên, nhưng bình thường, về các khoảng thời gian nuốt so với nhóm những người trẻ hơn. Sự tăng thời gian của quy trình nuốt cũng được tìm thấy...Đọc Thêm
Xem thêmQuá trình nuốt bình thường ở người lớn: Sự thay đổi của viên thức ăn và cách đưa thức ăn vào
Việc thay đổi thể tích, kết cấu, vị, và cách thức đưa thức ăn vào có thể ảnh hưởng đến sinh cơ học của quy trình nuốt bình thường. Các điều chỉnh chế độ ăn thường được sử dụng trong điều trị cho các bệnh nhân có rối loạn nuốt (xem Chương 9, 10 và 15 để hỗ trợ trong việc bù trừ cho những khiếm khuyết của họ). Các điều chỉnh được chỉ định về thể tích, kết cấu (độ kết dính/độ nhớt), và vị để tạo điều kiện thuận lợi cho nuốt bình thường được dựa trên các nghiên cứu về những tác động của các tham số này lên quy trình nuốt bình thường. Các kết quả từ những nghiên cứu như vậy không thống nhất bởi vì tính đa dạng của đối tượng nghiên cứu, các công cụ đo lường...Đọc Thêm
Xem thêmQuá trình nuốt bình thường ở người lớn: Sinh lý bình thường
Nhiều nghiên cứu đã xem xét các khía cạnh bình thường của chuỗi nuốt miệng hầu. Cơ sở lý luận thường được sử dụng cho các nghiên cứu này đó là các nhà lâm sàng phải có khả năng so sánh các dữ liệu quy chuẩn với dữ liệu của bệnh nhân để quyết định liệu có tồn tại sự bất thường nào không. Mặc dù cách tiếp cận trong việc phát hiện này chỉ có giá trị tổng thể nói chung (heuristic appeal), các nghiên cứu về quá trình nuốt bình thường đã tiết lộ một sự biến thiên đa dạng rất lớn giữa các cá thể bình thường (khỏe mạnh), đặc biệt trong các giai đoạn chuẩn bị ở miệng và giai đoạn miệng trong quá trình nuốt. Một phần của sự đa dạng này có thể quy cho việc lựa chọn cá thể nghiên...Đọc Thêm
Xem thêmQuá trình nuốt bình thường ở người lớn: Giải phẫu bình thường về nuốt
Khoang miệng trải rộng từ hai môi ở phía trước đến khoang hầu mũi ở phía sau và có chứa lưỡi, nướu, và răng. Khoang miệng được tác biệt khỏi khoang mũi bởi khẩu cái cứng (bony palate) và khẩu cái mềm (velum, soft palate). Nó được cấu thành từ một hàm dưới (lower jaw, mandible) với tính di động khá cao, bao gồm một thân hình chữ U chứa các mỏm quan trọng cho các cơ bám vào. Hàm trên (upper jaw, maxilla), tiếp giáp xương gò má và được nối tiếp bởi các xương vòm miệng, nằm phía sau so với khoang mũi. Phần vuông gốc của các xương vòm miệng tạo thành phần sau của khoang mũi, trong khi phần ngang tạo thành phần sau của khẩu cái cứng. Khẩu cái mềm và thành hầu mũi sau dán kín và mở đường thông giữa...Đọc Thêm
Xem thêmĐánh giá chứng khó nuốt
Định nghĩa chính xác về chứng khó nuốt rất nhiều, nhưng nói ngắn ngọn, chứng khó nuốt là gặp khó khăn khi nuốt thức ăn đặc hay lỏng. Tình trạng này có thể mang tính chủ quan hay khách quan, và có thể liên quan đến cảm giác không thể nuốt, thức ăn ‘mắc lại’ hoặc không trôi xuống, nghẹn từng cơn, hoặc hít sặc thức ăn hoặc nước. Cần phân biệt với chứng nuốt đau (đau khi nuốt) và cảm giác nghẹn (cảm giác có một cục nghẹn trong cổ họng khi ăn). Chứng khó nuốt có thể do các bất thường về chức năng hoặc cấu trúc của khoang miệng, hầu họng, thực quản hoặc tâm vị dạ dày. [1] Cứ 17 người thì có một người sẽ bị chứng khó nuốt trong đời. [2] Tình trạng này được báo cáo xảy...Đọc Thêm
Xem thêmRối loạn nuốt ở bệnh nhân sau tai biến
Rối loạn nuốt là một di chứng tai biến mạch máu não rất thường gặp, ngoài việc làm bệnh nhân khó khăn trong ăn uống, rối loạn nuốt có thể gây ra các biến chứng nguy hiểm như hít sặc, viêm phổi, khó thở và có thể dẫn đến tử vong. Phát hiện sớm rối loạn nuốt trong tai biến mạch máu não và điều trị kịp thời giúp bệnh nhân hạn chế các biến chứng, chức năng nuốt và việc ăn uống được sớm phục hồi. Rối loạn nuốt trong tai biến mạch máu não 1.1. Rối loạn nuốt là gì? Nuốt là một quá trình vừa chủ động vừa tự động, trong đó có sự phối hợp nhiều nhóm cơ để đẩy thức ăn từ miệng xuống dạ dày, sinh lý nuốt được chia làm bốn giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên là giai đoạn chuẩn...Đọc Thêm
Xem thêmĐột quỵ não là gì? Nguyên nhân, triệu chứng, chẩn đoán và hướng điều trị cơ bản cho đột quỵ não là gì?
Tổng quan về Đột quỵ não Đột quỵ não (tai biến mạch máu não) là tình trạng một phần não bộ đột ngột bị tổn thương khi mạch máu nuôi dưỡng phần não đó bị tắc (nhồi máu não) hoặc bị vỡ (xuất huyết não). Đột quỵ não xảy ra khi mạch máu nuôi não bị tắc nghẽn hoặc bị vỡ làm cho não không nhận đủ oxy. Khi đó một phần não bắt đầu chết đi và gây tổn thương não. Sau khi đột quỵ xảy ra, mỗi phút trôi qua sẽ có gần 2 triệu tế bào não bị chết và làm người bệnh già hơn khoảng 3 tuần tuổi. Chính vì vậy, “thời gian chính là não”. Người bệnh cần được điều trị càng sớm càng tốt và biện pháp điều trị duy nhất đó chính là “tái tưới máu cho não” càng nhanh càng tốt. Đột quỵ là...Đọc Thêm
Xem thêmKhai giảng khóa đào tạo thạc sĩ Kỹ thuật Phục hồi chức năng chuyên ngành Ngôn ngữ trị liệu tại Đại học Y Dược Tp. Hồ Chí Minh
Trang trọng, đầm ấm, xúc động, ghi nhận, hạnh phúc…là không khí buổi lễ khai giảng khoá Thạc sĩ Kỹ thuật Phục hồi chức năng chuyên ngành Ngôn ngữ trị liệu tại Đại học Y Dược Tp. HCM vào ngày 8 tháng 1 năm 2020. Đại diện BGH, lãnh đạo Khoa Điều Dưỡng – Kỹ thuật Y học và Bộ môn Phục hồi chức năng đã trân trọng cảm ơn tổ chức Ủy ban Y tế Hà Lan – Việt Nam/ MCNV – chủ dự án Phát triển đào tạo Ngôn ngữ trị liệu tại Việt Nam – đã nỗ lực hết mình hỗ trợ nhà trường trong suốt hơn 2 năm vừa qua để có thể triển khai được khóa đào tạo này. Đây là Dự án với nguồn tài trợ từ USAID, thông qua tổ chức VietHealth, và tư vấn chuyên môn từ tổ chức TFA. ông Phạm Dũng – GĐ...Đọc Thêm
Xem thêm